Những vần thơ Anđécxen, những vần thơ ngân vang từ thung lũng Ôđenzơ, nơi có những hẻm núi sương giăng mờ ảo và những vòm hoa thạch thảo tim tím nên thơ đã gieo vào tâm hồn nhà văn Pauxtôpxki niềm xúc cảm mãnh liệt: “Anđécxen đã lượm lặt hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp lều, từ đó lớn lên và nảy nở những bó hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ”. Thơ ca, hai chữ kì diệu mà muôn đời vẫn chưa tìm ra một định nghĩa trọn vẹn, hòan chỉnh. Thơ là gì ? Thơ bắt nguồn từ đâu ? Thơ có mãnh lực gì khiến cung đàn cảm xúc của triệu triệu con người trên trái đất này không ngừng lay động, thổ thức, xuyến xao ? Phải chăng “thơ” ở đây như trong lời bình của nhà văn học Nga V.Bêlinxki vào thế kỉ mười chín”:
Albert Einstein đã từng nhận định: “Cái tôi và sự hiểu biết tỉ lệ nghịch với nhau. Hiểu càng nhiều, cái tôi càng bé. Hiểu càng ít, cái tôi càng to”. Thật vậy, sông càng sâu thì càng phẳng lặng, núi càng cao lại càng cúi đầu. Điều này gợi nhắc tôi nhớ đến câu nói “Hữu xạ tự nhiên hương”. Thế nhưng trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 như hiện nay, câu nói này đã khiến ta phải suy nghĩ đến quan niệm xây dựng hình ảnh bản thân có còn “Hữu xạ tự nhiên hương” hay không?
“Hữu xạ tự nhiên hương” là một thành ngữ Hán Việt mà ở đó, từng từ đều mang nét nghĩa riêng. “Hữu” có nghĩa là hiện hữu, tồn tại còn “xạ” là hương thơm xạ hương. Từ “xạ” có nguồn gốc từ tuyến hươu xạ sống ở phía Nam Trung Quốc. Chất xạ có mùi rất đặc trưng, thơm một cách đặc biệt. “tự nhiên hương” được hiểu là có mùi từ nhiên, hương thơm tự nhiên, xuất phát từ bản thân vật chủ mà không cần tác động. Như vậy, nếu ghép nghĩa của các từ lại, ta sẽ hiểu được câu nói này. Giống như chất xạ mang trong mình hương thơm khác biệt ắt sẽ được trọng dụng và yêu thích, “Hữu xạ tự nhiên hương” đề cập đến vấn đề bản thân con người nếu có “hương thơm”, có “chất riêng” thì sẽ tự thu hút, hấp dẫn những thứ khác. Hiểu một cách sâu xa hơn, câu thành ngữ Hán Việt này mang lại cho chúng ta bài học triết lý làm người về sự khiêm tốn. Nếu ta sống lương thiện, sống có đức, có tài thì người khác sẽ tự nhận ra điểm tốt của ta mà không cần phải khoe khoang, phô bày. Nếu trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ cần ta tận tâm, tận lực làm tốt bổn phận và trách nhiệm của bản thân thì sẽ đến một lúc “hữu xạ” và sẽ “tỏa hương” mà không cần bất kỳ tuyên bố phô trương, ầm ĩ nào. Cuốn sách chữ Hán “Tam tự kinh” có câu nói “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Trong bản thân mỗi con người đều có bản tính hiền lành, lương thiện nhưng liệu trong quá trình trưởng thành, tu dưỡng, ta có giữ và phát huy được phẩm chất đó không hay là dễ dàng bị dụ dỗ, sa đọa và làm những điều lầm lỡ. Vì vậy “Hữu xạ tự nhiên hương” còn là lời khuyên con người nên tu tâm dưỡng tính, rèn sức luyện tài ắt sẽ không phụ lòng.
Con người từ khi sinh ra đều là những trang giấy trắng, là những số không tròn trĩnh. Trong quá trình lớn lên và trưởng thành, mỗi người tự gây dựng, gặt hái được những thành tích cho bản thân theo những con đường khác nhau. Dù trong bất kỳ lĩnh vực nào, khi mỗi người đều hoàn thành tốt công việc, làm tròn bổn phận và trách nhiệm của bản thân thì sẽ kiến tạo nên những giá trị nhất định. Những điều đó nó sẽ tự tỏa sáng theo cách riêng mà không cần bất kỳ ánh đèn sân khấu nào soi chiếu. Đồng thời khi tập trung phát triển và hoàn thiện cái “tôi” của riêng mình thì theo thời gian, ta của ngày hôm nay sẽ tốt hơn ta của ngày hôm qua. Ngày qua ngày, ta trưởng thành hơn, có nhiều trải nghiệm và kinh nghiệm sống hơn. Khi trên người hội tụ đầy đủ những giá trị, phẩm chất tốt đẹp thì tự khắc, người đời tự biết đến ta là ai? Đó là bản chất của “Hữu xạ tự nhiên hương”.
Nhìn rộng ra thế giới, người ta biết đến tên tuổi của William Shakespeare là người “Hữu xạ tự nhiên hương”. Có lẽ nếu ông không sáng tác những tác phẩm nổi tiếng, mang đặc trưng riêng của bản thân, được người đời biết đến là nhà soạn kịch danh tiếng thì mãi mãi chỉ là một diễn viên vô danh trong nhà hát hay là một chân nhắc tuồng. Với những phát minh vĩ đại dành cho nhân loại, nhưng Einstein cũng chưa bao giờ khẳng định mình là một người tài giỏi: “Tôi chỉ là một người bình thường như bao người khác thôi, cũng sống và làm công việc mình yêu thích, sao lại gọi tôi là người nổi tiếng”. Thật vậy, những người nổi tiếng chân chính đều là người kiến tạo những giá trị cần thiết và có ích cho cuộc sống của nhân loại nhưng chẳng một ai thừa nhận mình là người tài giỏi. Chính điều đó đã thu hút ánh nhìn của mọi người về họ và họ cứ tỏa sáng theo cách riêng của bản thân giống như vì sao tinh tú trên bầu trời bao la.
Trong thời đại hiện nay, việc xây dựng hình ảnh cá nhân là điều quan trọng và cần thiết đối với mỗi người. Điều đó vừa là động lực thúc đẩy ta tiến bộ, phát triển qua từng ngày đồng thời sẽ đem đến lợi ích cho chính bản thân mình. Nếu xây dựng được hình ảnh cá nhân tốt từ ban đầu, ta sẽ tiết kiệm được thời gian cho những thử nghiệm, hạn chế sai sót, vấp ngã. Có lẽ chúng ta không quá xa lạ với Trần Khánh Vy - người biết đến với biệt danh đầu tiên là hot girl 7 thứ tiếng. Dù ban đầu, cô cũng gây tranh cãi về khả năng phát âm nhiều ngoại ngữ của mình nhưng đó cũng chính là động lực Khánh Vy trưởng thành như hiện tại. Cô đã từng bước, đặt từng viên gạch để xây dựng thương hiệu cá nhân như hiện nay với bảng thành tích học tập khủng tại Học viện ngoại giao, trở thành Host của IELTS Face Off đồng thời là người dẫn chương trình của chương trình truyền hình “Đường lên đỉnh Olympia”. Cô là người truyền cảm hứng rất nhiều cho các bạn trẻ về năng lượng sống tích cực và con đường chinh phục ngoại ngữ. Phải nói cô là một trong số những người trẻ gây dựng thương hiệu rất thành công.
Đại Văn hào Lev Tolstoy đã từng nói “Người ta như một phân số mà tử số là giá trị thật của người ta, còn mẫu số là giá trị mà người ta tưởng tượng là mình có. Mẫu số càng to thì phân số càng nhỏ. Khi mẫu số là vô cùng tận thì phân số bằng không”. Tuy nhiên, trong thời đại bùng nổ công nghệ số như hiện nay, liệu “Hữu xạ” có “tự nhiên hương”? Giữa thời đại vật chất quyết định ý thức, liệu con người có bị cuốn theo xã hội đồng tiền để bất chấp tất cả mà đánh đổi sự nổi lên nhất thời của mình bằng những tai tiếng về sau hay không? Liệu có người “không hữu xạ” mà vẫn được mọi người biết đến không? Đó là những câu hỏi khiến ta phải băn khoăn, trăn trở. Quả thật, trong thời đại bùng nổ và cạnh thông tin như hiện nay, có một bộ phận không nhỏ sợ rằng thế giới không biết mình là ai nên đã quảng cáo rầm rộ và nhờ truyền thông để nâng tầm giá trị. Lâu dần, người ta chẳng còn ngạc nhiên với việc quảng cáo khác xa với sự thật, từ cá nhân cho đến tập thể, thương hiệu. Đôi lúc, nhiều người không có “hữu xạ” nhưng vẫn muốn được người đời biết đến nên đã làm những điều vốn dĩ bản thân không có, sống không thật với lương tâm. Vì nóng lòng muốn nổi tiếng, muốn thành công nên đã ngụy tạo bằng chứng, giả dối.
Ngày nay, xây dựng hình ảnh cá nhân, gây dựng thương hiệu là điều cần thiết nhưng không phải vì vậy mà bất chấp mọi thủ đoạn. Dù “hữu xạ” rồi “tự nhiên hương” hay “hữu xạ” nhưng dùng những cách khác nhau để người khác biết đến thì đều đáng quý, chỉ cần “hữu xạ” một cách đúng nghĩa bởi khi đã “hữu xạ” thì “tự nhiên hương” chính là những trái ngọt mà ta xứng đáng được nhận. Thay vì xây dựng bản thân bằng những điều rỗng tuếch thì hãy tạo dựng hình ảnh ấy là những giá trị, những “chất” bên trong con người. Chỉ cần mình là ánh sáng, mình thực sự vẫn sẽ tỏa sáng hay nói cách khác, việc của mình không phải là đuổi theo những vì tinh tú mà tỏa nắng như ánh mặt trời.
“Hữu xạ tự nhiên hương” là một thông điệp đúng đắn, trường tồn mãi theo thời gian. Khi chúng ta có niềm tin vào bản thân là ánh sáng thì chắc chắn sẽ tỏa sáng. Ngắm nhìn thế giới tươi đẹp, tôi nhận ra bản thân còn những điều chưa tốt. Nhưng qua câu thành ngữ này, tôi muốn tỏa sáng theo cách riêng của bản thân nên chắc chắn, tôi sẽ lập ra kế hoạch cụ thể để hành động, hoàn thiện và phát triển bản thân. Và tôi tin rằng qua từng ngày, tôi sẽ trưởng thành hơn và sẽ “Hữu xạ tự nhiên hương” theo năm tháng.
Trong bức thư thứ 805 của quyển sách “999 lá thư gửi cho chính mình” được chắp bút bởi Miêu Công Tử có đoạn viết “Đừng đuổi theo một con ngựa. Hãy dành thời gian trồng cỏ, đợi đến khi xuân sang hoa nở, tự khắc sẽ có một đàn tuấn mã tìm đến để bạn tùy ý lựa chọn”. Ta hãy cứ hoàn thiện bản thân qua từng ngày, là phiên bản tốt nhất của chính mình rồi sẽ “Hữu xạ tự nhiên hương”. Hãy khiêm tốn, hãy học hỏi rồi sẽ có thật nhiều cánh cửa rộng mở với bạn.
"Văn thì cứ suy tôn Hàn Dũ, thơ lại chỉ thấy thần tượng Đỗ Phủ, chẳng khác gì leo núi phải lên Thái Sơn, bơi thuyền phải ra Đông Hải vậy. Nếu cứ ôm lấy Đông Hải, Thái Sơn, mà ngoài ra không biết cái lạ của Thiên Thai, Vũ Di, cái đẹp của Tiêu Tương, Kinh Hồ thì người đó chỉ là anh đốn củi trên Thái Sơn, bác lái đò ngoài Đông Hải".
Trong "Tùy Viên Thi Thoại", Viên Mai quan niệm dấu ấn của mỗi người nghệ sĩ nằm ở sự mới mẻ, độc đáo, nhìn xa trông rộng để quan sát hết thảy giang san. Phải chăng, mỗi nhà văn cũng cần sáng tạo "thế giới của riêng mình", "thế giới của riêng mình nhưng lại không chỉ cho riêng mình".
Từ ba màu sắc chính là xanh, đỏ, vàng mà tạo ra những bức tranh muôn hình vạn trạng; từ bảy nốt nhạc mà tạo nên biết bao âm giai lúc trầm, lúc bổng, lúc dạt dào, lúc sâu lắng; và cũng chừng ấy chữ cái mà biết bao tác phẩm văn học muôn màu muôn sắc ra đời. Với nguồn nguyên liệu thô sơ, ít ỏi ấy, bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ đã lựa lọc để sáng tác nên "thế giới của riêng mình" - thế giới của tình cảm, cảm xúc, thế giới của những mảnh đời với muôn kiểu tình huống, thế giới được tạo nên từ quan niệm và cách nhìn của chính nhà văn.
Sáng tạo "thế giới của riêng mình" là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn. Và liệu có phải chỉ có nhà văn, nhà thơ mới tạo tác được thế giới ấy? Từ cửa sổ phòng bệnh, trong nỗi cô đơn tuyệt vọng của bệnh tật và cả khát khao vươn tới cái đẹp, Van Gogh đã khắc họa thế giới riêng chứa đầy cảm xúc hỗn tạp qua bức tranh "Đêm đầy sao". Trong đêm trăng mang đau đáu của mối tình đơn phương, Beethoven đã tạo nên thế giới riêng qua "Sonat ánh trăng", lúc mãnh liệt như những đợt sóng trào, lúc mênh mang như dòng sông Danube, lúc trầm mặc, dịu êm như vầng trăng huyền ảo. Không chỉ riêng văn học, mà ở các lĩnh vực như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, người nghệ sĩ đều có thể tạo nên thế giới riêng. Tôi băn khoăn rằng, liệu thế giới riêng trong văn học có gì khác biệt? Phải chăng, điều đó nằm ở tính đại chúng, không phải ai cũng tự sáng tạo được một bức tranh, hay viết một bản nhạc để gửi gắm tâm tư, nhưng ai cũng có thể viết văn, làm thơ, giãi bày tình cảm qua ngôn từ. Mỗi người đều tạo ra một thế giới riêng qua ngôn từ!
Viết văn, cũng chừng ấy kí tự, chừng ấy con chữ, mỗi nhà văn sáng tạo ra một thế giới của riêng mình. Nguyễn Tuân từng quan niệm "Nghề văn là nghề của chữ", đó là nghề "dùng chữ nghĩa sinh sự để sự sinh". Từng ấy kí tự, mỗi nghệ sĩ với quan điểm sáng tác khác nhau, giọng văn khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, tính cách khác nhau sẽ tạo nên tác phẩm khác nhau. Người ta nhớ về Nguyễn Tuân là bậc thầy sáng tạo ngôn từ, thế giới của ông là thế giới của những người tài hoa nghệ sĩ, sự vật được viết dưới bình diện văn hóa thẩm mỹ. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, nhu cầu tránh trùng lặp trong văn học đã buộc Nguyễn Tuân tung ra tất cả những chữ đồng nghĩa trong vốn liếng của mình. Nói về phi công Mỹ, ông những từ "cướp trời, giặc trời, vân phỉ…", nói về lính Mỹ bị giải đi, ông dùng những từ "Một dây tù Mỹ, một dây tội tù, một chuỗi quỷ sống, một xâu vô lại".
Thế giới riêng mình không có nghĩa là nhà văn tự tách biệt bản thân khỏi dòng chảy chung của nhân loại. Xuyên suốt các thời kì phát triển, mỗi người nghệ sĩ đều không ngừng nỗ lực cống hiến những áng văn thơ ghi lại dấu ấn cuộc đời, mỗi tác phẩm đều là tinh hoa tiền nhân để lại cho hậu thế tiếp nối, kết thừa, phát triển. Người ta thường hiểu lầm rằng nghệ sĩ chủ trương xóa bỏ gò bó để tự do tạo ra thế giới của riêng mình, nhưng không có gò bó cũng không có nghệ thuật. Sở dĩ, bậc đại sư vẽ ngựa Hàn Can thành công là bởi ông lấy ngựa thực làm thầy. Thạch Đào đời Thanh cũng từng nói "Nhặt góp hết thảy những đỉnh núi lạ rồi mới viết bản thảo". Không có người nghệ sĩ nhân chính nào tách biệt khỏi thế giới chung và cũng không có tác phẩm thành công nào mà không dựa trên tinh hoa của người xưa để lại.
Thế giới của riêng mình cần bắt nguồn từ thực tế cuộc sống. Nghệ thuật là lĩnh vực của sáng tạo, người nghệ sĩ được phép dựng xây một thế giới riêng, song không có nghĩa thế giới ấy xa rời thực tế. Nhà văn thụ hưởng bầu sinh quyển thời đại, chứng kiến đổi thay thời thế nên lẽ tất yếu thế giới mà nhà văn gây dựng mang hình ảnh của cuộc sống. Hơn hết, vượt lên trên nhu cầu thỏa mãn sáng tạo cá nhân, mỗi nhà văn, nhà thơ đều có sứ mệnh cao cả ghi lấy những cuộc "bể dâu", những biến cố lịch sử không thể nào quên. Sáng tác trong thời kì đòi hỏi tính quy phạm, cái ta chung vô cùng chặt chẽ, Đỗ Phủ vẫn thành công xây dựng thế giới nghệ thuật riêng. Suốt cả một đời, những dòng thơ dung dị, chân thật của Thánh Thi xoay quanh lòng yêu dân, ái quốc và tinh thần đấu tranh chống bọn cường quyền. Thế giới trong thơ ông bắt nguồn từ chính cuộc đời thực, khi nhà thơ chịu nhiều cảnh cực khổ loạn lạc, tận mắt thấy bao hiện tượng thối nát của xã hội, kinh qua nỗi khổ của lê dân bá tánh. Cảm hứng từ cuộc đời mới làm nên chất riêng trong thế giới của văn sĩ.
Từ thế giới riêng của người nghệ sĩ, bạn đọc thấy được hình ảnh của chính mình, bởi "Bài thơ hay làm cho ta không còn thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người. Quên rằng đó là tiếng nói của ai, người ta thấy nó như tiếng ca từ trong lòng mình, như là của mình vậy" (Tố Hữu).
Trong nhịp bước phát triển của thế giới công nghệ ngày nay, cụm từ "thế giới riêng" đã chẳng còn xa lạ với chúng ta. Không ít người tạo ra một không gian riêng trên nền tảng mạng xã hội, họ cho rằng đó là thế giới của họ và hễ khi người khác phạm sai lầm, tâm lý đám đông khiến họ sẵn sàng mỉa mai, buông những câu nói lạnh lùng làm tổn thương người khác, và rồi, chúng ta dần xa nhau, mất đi sợi dây kết nối tâm hồn với tâm hồn. Bởi vậy, câu nói không chỉ đúng với nhà văn mà còn có giá trị trong thời đại hôm nay, thế giới của mình nhưng không phải vị kỉ, không phải cho riêng mình!
"Viết ra không phải là việc khó; cái khó là phải có những câu chuyện gì đáng kể để kể, những tư tưởng gì đáng ghi để ghi" (Jérôme và Jean Tharaud).
"Ai bảo dính vào duyên bút mực
Suốt đời mang lấy số long đong."
Nguyễn Bính đã từng than thở như thế. Bao con người cũng phải gánh chị nỗi đau vì sự bạc bẽo của văn chương. Tai sao như vậy? Phải chăng nghệ thuật đòi hỏi rất cao ở người nghệ sĩ, đúng như Lêônit Lêônôp đã yeu cầu: "Mỗi tác phẩm là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung".
Cũng như ý kiến của Xuân Diệu, Nguyễn Tuân nhà văn Nga muốn khẳng định các nghệ sĩ phải trau dồi cá tính sáng tạo của mình. Mỗi tác phẩm phải kà một sự hiện diện của nhà văn đối với cuộc đời. Do vậy cái mới, cái độc đáo trong phong cách của người sáng tác phải thể hiện ơ sự tìm tòi cái mới về nghệ thuật cũng như nội dung. Nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hiện thực cuộc sống là kho đề tài vô tận để người nghệ sĩ khám phá, phát hiện, nhưng đối với mỗi cây bút, nó lại được chiếu rọi dưới một ánh sáng riêng. Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình và biết làm cho ấn tượng ấy có được hình thức riêng biệt, độc đáo. Đúng như vậy, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của nghệ thuật.
Cuộc sống bày ra trước mặt biết bao cảnh ngộ, số phận. Người nghệ sĩ hơn những người bình thường ở chỗ biết tìm ra những hiện tượng đặc sắc có thể nói lên rõ rệt bản chất của hiện thực. Độc giả tìm đến với tác phẩm trước hết là để bồi đắp tâm hồn, làm phong phú hơn vốn tri thức. Vì lẽ đó, người sáng tác phải đem đên cho họ một cái nhìn mới, mang đậm dấu ấn chủ quan.
Cuộc sống là phong phú vô tận, nhưng sự hiểu biết và hứng thú của nhà văn thì có hạn. Do đó ngoài việc tìm đến những mảnh đất mới của hiện thực để gieo mần tư tưởng, người nghệ sĩ phải biết phát huy vố ấn tượng riêng của mình để tìm ra những gì mới mẻ trong những đề tài quen thuộc. Có như vậy, nhà văn mới tránh khỏi sự lặp lại vô nghĩa những điều mà người khác đã nói. Nói cách khác, mỗi nghệ sĩ phải tìm ra cho mình một con đường riêng để đến với cuộc sống và trái tim bạn đọc. LepTônxtôi đã từng nói với những người viết văn trẻ, đại ý: Nào, các anh có đem đến cho chúng tôi một cái gì mới khác với những người đến trước anh không? Bàn về thơ Nguyễn Tuân cũng khẳng định: "Thơ là đã mở ra được một cái gì đó mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó, vẫn như là bị đóng kín".
Mỗi tác phẩm là một thông điệp thẩm mỹ mà người nghệ sĩ gửi đến bạn đọc. Do đó trước hết mỗi tác phẩm là một "khám phá về nội dung". Muốn vậy, nhà văn không chỉ là "người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho", mà phải biết "đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có" (Nam Cao). Nhà văn phải biết nhì sâu vào cuộc sống, hiểu về tâm hồn của con người để khám phá ra những vấn đề mới, cất tiếng nói riêng của mình với cuộc đời. Trong nghệ thuật, nội dung và nghệ thuật gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau. Nội dung là nội dung của hình thức, hình thức là hình thức của nội dung. Một nội dung mới sẽ tìm cho mình một hình thức mới. Sự thay đổi về hình thức biểu hiện cũng có thể kéo theo sự thay đổi về nội dung. Có khi nhà văn đề cập đến những vấn đề của muôn đời nhưng lại nói với giọng điệu riêng, âm sức riêng của tâm hồn mình; do vậy tác phẩm vẫn đem đến cho người đọc cái mới đáng quý.
Cái độc đáo sáng tạo về nội dung và hình thức của tác phẩm tạo nên phong cách riêng của người nghệ sĩ không phải là chuyện cách nói mà chủ yếu là vấn đề cách nhìn, một cách nhìn nếu không do nghệ sĩ đem lại thì không bao giờ có được. Cái mới không chỉ đơn thuần thuộc về nội dung hay nghệ thuật một cách cực đoan, có nghĩa là không chỉ đơn thuần tìm ra cái mới trong hình thức mà trước hết phải xuất phát từ các mới của nội dung. Khi cả tác phẩm toát lên cốt cách riêng, phong vận riêng mới lạ thì nó sẽ tác động mạnh mẽ vào người tiếp nhận. Người nghệ sĩ đi sâu vào cái chủ quan, cái cá nhân của mình, mặt khác vẫn phải gắn bó với cuộc sống để không đẩy sự mới lạ lên thành cá nhân chủ nghĩa.
Mỗi thời đại, mỗi tác giả góp vào dòng chảy văn học một cách cảm nhận mới, một niềm trăn trở khác nhau và một cách nói mới. Điếu này sẽ tạo ra tính liên tục, phát triển sự phong phú của nền văn học. Mỗi gia đoạn văn học, mỗi nghệ sĩ có một bản sắc riêng, một diện mạo riêng. Chính những phát minh về hình thức đã góp phần làm cho văn học nhân loại vận động từ kiểu sáng tác này đến kiểu sáng tác khác.
Trong văn mạch dân tộc, nhìn trên diện rộng cũng có thể thấy mỗi thời đại để lại một khí chất, mang một cảm hứng chủ đạo khác nhau. Văn học Lí, Trần, Lê lấy cảm hứng chủ đạo là lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Sang giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các nhà nghệ sĩ lại bị ám ảnh hơn cả bởi vấn đề số phận con người. Họ không đi vào ngợi ca cảnh thài bình thịnh trị như văn học thời Lê mà xoáy sâu vào bi kịch của những thân phận con người. Mỗi tác phẩm lớn của thời kỳ này là một tiếng yêu thương mỗi cá nhân. Sang giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cảm hứng nổi lên trong văn học chân chính lại là tình yêu mãnh liệt, khát vọng độc lập dân tộc. Vào những năm đầu của thế kỷ XX, các thi sĩ phong trào thơ mới nói lên khát vọng cởi trói cho cái "tôi" cá nhân của mình... Mỗi thờ đại có một nét riêng và cải riêng ấy dội vào tác phẩm với những âm hưởng khác nhau. Thú vị thật, độc đáo nhất với người đọc lá sự lắng nghe những giọng điệu riêng của mỗi tâm hồn nghệ sĩ. Lĩnh vực thử thách lớn nhất đối với tài năng người cầm bút là trong một đề tài quen thuộc, anh có thể nói lên được điều gì mơi lạ hay không. Bản sắc riêng, khí chất riêng của mỗi tâm hồn làm cho mỗi tác phẩm có một diện mạo riêng.
Cũng viết về kỹ nữ, nhưng Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu, Tố Hữu, mỗi người có một cách nhìn riêng, một cách nói riêng. Bằng khúc "Tì Bà Hàng", thi sĩ họ Bạch cất lên tiếng nói xót thương đầy cảm thông cho người phụ nữ tài sắc và cũng thể hiện nối đau trong chính số phận long đong, lận đận của mình. Tiếng hát của người kỹ nữ cất lên giữa đêm trăng cô vắng làm thức dậy bao nỗi niềm của chàng Tư mã áo xanh. Nỗi xót thương ấy, nỗi đau khổ ấy vẫn gặp trong văn học cổ điển. Thấm thía mà nhẹ nhàng, nỗi sầu muốn lan ra cùng cảnh vật:
"Bến Tầm Dương đêm khuya đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu"
Không hiểu sao hai chữ "canh khuya" với mỗi tâm hồn Việt Nam lại có sức gợi đến thế? Không chỉ gợi cái khuya của thời gian mà còn chứa sẵn trong đó cảm giác bất trắc, muôn màng, e sợ. Nỗi buồn lan ra theo những dải tơ trời , khiến không gian như lặng ngắt để lắng vào cõi tâm tư, thấm vào lòng người và tràn ra thành dòng lệ. Nỗi đau ở đây là sự cộng hưởng của hai nguồn yêu thương: thương người và thương thân, tạo mối tình tri âm và tri kỷ, nói đúng hơn là tạo nên sự xót thương, đồng cảm giữa những nạn nhân đau khổ cùng một lứa bên trời lận đận. Mang tấm lòng đầy yêu thương đến với cái đẹp. Nguyễn Du lại nhìn thấy trong thân phận bất hạnh của người ca nữ nơi đấu Long Thành cả lẽ hưng phế của thời cuộc bể dâu, của một đời người đã trải qua bao cơn sóng gió, bao phen giang sơn thay chủ đổi ngôi. Cảm quan dâu bể thấm sâu trong từng câu chữ, tạo thành nỗi thương người, thương đời da diết của nhà thơ.
Tất cả những cảm thương, đau đớn ấy thể hiện những nét tâm tình của con người trung đại, yêu thương mà bất lực, bất lực nhưng vẫn lặng lẽ nếm chịu nỗi đau. Sang đến thơ mới, cái "tôi" cá nhân thức dậy với sự tự ý thức về bản ngã rất mãnh liệt. Ở một hồn thơ cuồng nhiệt như Xuân Diệu, hình ảnh người kỹ nữ không đau xót một cách ngậm ngủi nàng như run lên vì đau khổ và giá lạnh.
"Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo buốt xương da"
Nàng như một linh hồn cô đơn bị vây phủ bởi bốn bề lạnh lẽo. Cái lạnh xuyên thấu vào tâm can. Trăng không "trong vắt" một cách tĩnh lặng, xa xôi mà từ cái sáng của vầng trăng còn toả ra hơi lạnh và sự cô đơn.
Nếu như Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Xuân Diệu yêu thương mà vẫn bất lực, vẫn chỉ biết đau đời cất lên tiếng kêu tuyệt vọng với con tạo hay đánh ghen với khách má hồng, thì Tố Hữu lại đem đến cho chúng ta một niềm lạc quan, tin tưởng . Từ trong hiện tại còn bao nhục nhã, xót xa, thi sĩ đã hướng tới ngày mai, một ngày mai tươi sáng. Nhà thơ khẳng định cuộc đời đau khổ của người kĩ nữ kia sẽ đổi thay:
"Ngày mai bao lớp đời dơ
Sẽ tan như đám mây mờ hôm nay"
Như vậy, cùng viết về người kĩ nữ, các nhà nghệ sĩ đã gặp nhau ở sự đồng cảm, xót thương. Nhưng mỗi tác phẩm lại có một linh hồn riêng, tạo nên sức sống riêng. Nếu Bạch Cư Dị, Nguyễn Du viết bằng thể thơ Đường luật thì Xuân Diệu lại sử dụng thể thơ tự do, thoát khỏi sự gò bó về niêm luật.
Thiên nhiên cũng là một đề tài muôn thuở của văn chương nhưng không bao giờ cũ bởi mỗi thời đại, mỗi nghệ sĩ lại nhìn thiên nhiên ấy với một cảm quan riêng. Trong thơ cổ, thiên nhiên mang kích thước vũ trụ và thường được miêu tả như là bức tranh tĩnh lặng. Cảnh vật thiên nhiên được khắc hoạ bằng đoi nét chấm phá cốt ghi lấy cái linh hồn của tạo vật. Cũng là gió ấy, trời nước ấy nhưng thiên nhiên hiện lên trong mỗi tác phẩm một khác. Ta hãy cùng thưởng thức thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi:
"Nước biếc, non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh, nguyệt bạc khách lên lầu."
Cảnh vật hiện lên như bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Màu xanh của nước hòa cùng màu xanh của non tạo nên một vẻ đẹp thanh nhã. Con "thuyền gối bãi" thật nhàn nhã, lặng lẽ. Cảnh tĩnh như không có chút xao động nào. Cả một bầu không khí thanh sạch, thơ mộng được mở ra. Nói là cảnh đêm mà sao ta vẫn thấy lung linh ánh sáng. Bến nước hay là bến thơ? Dường như không có chút bụi trần nào làm vẩn đục khung cảnh ấy. Hình ảnh con người - chủ thể trữ tình không đối diện với người đọc bằng một cái tôi cá thể một là nói về ai đó, có thể là một khách văn chương. Tư thế con người là đang vận động, đi lên cao, nhưng sao vẫn tĩnh lặng như không. Thi nhân thả hồn mình vào thiên nhiên, đắm say thiên nhiên, nhưng vẫn lặng lẽ, vẫn ung dung như đứng ngoài dòng chảy của thời gian. Ức Trai giao hòa với cảnh vật nhưng không hề làm cho nó động lên mà tất cả nhưng ngưng đọng lại.
Đến thời Nguyễn Khuyến, thiên nhiên vẫn mang nét đơn sơ, tĩnh lặng ấy:
"Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Câu trúc lơ phơ gió hắt hiu."
Từ xanh gắt không chỉ gợi độ xanh mà còn gợi chiều cao, chiều sâu thăm thẳm. Không gian thanh sạch như được đẩy ra tới vô cùng. Cảnh có chuyển động nhưng thật khé khàng. Cái lơ phơ vừa gợi sự thưa thớt của lá trúc trên cầu trúc vừa gợi sự lay động nhẹ nhàng. Dường như cái lơ phơ ấy chỉ để nhận ra làn gió hắt hui.
Cũng là mùa thu ấy, làn gió ấy khi vào thơ Xuân Diệu chúng trở lên khác hẳn:
"Những luồng run rẩy rung ring lá
Đã nghe rét mướt luồn trong gió"
Làn gió của Xuân Diệu không hắt hui thổi mà run rẩy vì thu đến. Rét mướt như một sinh thể ẩn trong gió. Cũng là cảnh cây cối, nhưng trong cảm quan của Xuân Diệu, lá cây cũng run lên vì lạnh.
Những tuyến đường mới đã góp phần làm cho tình hình giao thông Thủ đô Hà Nội thông thoáng hơn. Tuy nhiên, đa số những tuyến đường đó đều có kinh phí đầu tư rất ...
Trong đề thi môn văn luôn luôn có một câu nghị luận viết đoạn văn khoảng 200 chữ. Sẽ thật khó khăn với những bạn ít khi đọc sách, ít theo dõi báo đài hay ít va ...
Để giúp bạn có thể thư giãn, xua tan những mệt mỏi sau một ngày dài vui chơi, khám phá phố cổ. Bài viết hôm nay, Toplist sẽ bật mí cho bạn các spa massage tại ...
Viễn Phương là nhà thơ gắn bó với cuộc sống chiến đấu của bà con quê hương trong hai cuộc kháng chiến Pháp và chống Mỹ. Thơ ông dung dị, cảm xúc sâu lắng. Ông ...
Bạn đang tìm kiếm đơn vị thi công backdrop chuyên nghiệp, uy tín tại Cần Thơ cho sự kiện sắp tới? Hãy cùng Toplist tham khảo bài viết sau để tìm ra cái tên ...
Cuộc sống với bao khó khăn, thử thách đang chờ đợi, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải nỗ lực và thay đổi bản thân để có thể thích nghi với hoàn cảnh. Thay đổi ...
Mã số thuế: 5801488204 - Đại diện pháp luật: Nguyễn Minh Toản
Địa chỉ: Thôn Đắk Măng, Xã Đạ RSal, Huyện Đam Rông, Lâm Đồng
Mã số thuế: 5801488194 - Đại diện pháp luật: Nguyễn Thị Thọ
Địa chỉ: 4/1 Trương Vĩnh Ký, Phường 1, Thành phố Bảo Lộc, Lâm Đồng
Mã số thuế: 5801488356 - Đại diện pháp luật: Nông Minh Phúc
Địa chỉ: Xóm 1, Thôn Ninh Hòa, Xã Ninh Gia, Huyện Đức Trọng, Lâm Đồng
Mã số thuế: 5801488370 - Đại diện pháp luật: Hoàng Quyết Hùng
Địa chỉ: Số 3B/11 đường Cô Giang, Phường 9, Thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng
Mã số thuế: 5801488363 - Đại diện pháp luật: Hoàng Trọng Nguyên
Địa chỉ: Số 02 Trần Nhân Tông, Phường 8, Thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng
Mã số thuế: 0106605580 - Đại diện pháp luật: Phạm Văn Bình
Địa chỉ: Thôn Phong Lâm, Xã Hoàng Diệu, Huyện Gia Lộc, Hải Dương